Giới siêu giàu Keiretsu Nhật Bản - Phần 1: Họ là ai?

Ngọc Bích

Sau thế chiến thứ II, nền kinh tế Nhật Bản đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Theo các nhà nghiên cứu, Keiretsu là một trong những nguyên nhân chính giúp cho nền kinh tế nước này vực lại và phát triển một cách nhanh chóng. Mô hình Keiretsu còn được gọi là Xương sống kinh tế của Nhật Bản, có tiền thân là các Zaibatsu.

Nếu như nền kinh tế Hàn Quốc bị tác động bởi các Chaebol, thì nền kinh tế Nhật Bản sau thế chiến thứ hai được vực dậy và làm cho phát triển mạnh mẽ nhờ các tập đoàn lớn có liên kết với nhau gọi là các Keiretsu. Cũng như các Chaebol Hàn Quốc, Keiretsu ở Nhật Bản cũng được chính phủ trọng đãi.

keiretsu1-1670287662.png
Top 10 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới theo GDP Danh Nghĩa năm 2022. Ảnh: Wiki

Tính theo GDP danh nghĩa (Nominal GDP: tổng sản phẩm quốc nội), quốc gia này có nền kinh tế lớn thứ 2 ở châu Á và lớn thứ 3 trên thế giới, năm 2022 nominal GDP Nhật Bản đạt 5.04 nghìn tỷ USD.

Hiện tại Nhật Bản có 6 tập đoàn keiretsu công nghiệp lớn và 11 tập đoàn quy mô nhỏ hơn. Doanh số của các keiretsu này chiếm khoảng 25% doanh số của tất cả các công ty Nhật Bản nhưng chiếm khoảng 78% tổng giá trị vốn hóa của Thị trường chứng khoán Tokyo.

Zaibatsu - tiền thân của Keiretsu

Các Keiretsu có tiền thân là các Zaibatsu. Sau khi bại trận trong Thế chiến thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản sụp đổ toàn phần. Lực lượng Đồng Minh chủ tâm triệt hạ nền tảng phát xít ở Nhật Bản bằng cách phá vỡ các zaibatsu - các tập đoàn công nghiệp khổng lồ vốn kiểm soát nền kinh tế nước Nhật trước Thế chiến thứ hai. Trước kia bốn zaibatsu lớn nhất (Mitsibishi, Mitsui, Sumotomo, Yasuda) chiếm khoảng ¼ tổng tài sản công nghiệp Nhật Bản.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, trình độ tập trung tư bản của các Zaibatsu đã đạt mức rất cao: 10 Zaibatsu lớn nhất lên đến 53% trong ngành tài chính, 49% trong công nghiệp nặng và 17% trong công nghiệp nhẹ.

Trong khi tiền thân Zaibatsu là tập đoàn tài phiệt gia đình thì Keiretsu mở rộng hơn
Sự khác nhau giữa mô hình tổ chức Zaibatsu và Keiretsu. Ảnh: Text of Relipa

Điểm khác nhau lớn nhất giữa zaibatsu và keiretsu là mối quan hệ sở hữu và sự chi phối kiểm soát giữa các bên. Nếu như phía zaibatsu là quan hệ sở hữu và quyền kiểm soát thuộc về một gia đình tài phiệt nào đó, thì trong keiretsu, quan hệ sở hữu chính là tỷ lệ nắm cổ phần chéo giữa các công ty trong nhóm. Do vậy, các công ty luôn chịu sự chi phối và kiểm soát lẫn nhau.

Các Zaibatsu thực chất là mô hình công ty gia đình, chỉ được thừa kế bởi những người chung huyết thống, là công ty theo kiểu nửa phong kiến, được chính phủ hậu thuẫn và là công cụ của Chính phủ khi có chiến tranh xảy ra. Khi Keiretsu xuất hiện, nền kinh tế Nhật Bản trở nên dân chủ hơn.

Nguồn gốc của Keiretsu

Ngày 9/8/1945, một quả bom plutonium tàn phá thành phố Nagasaki chỉ 3 ngày sau khi thành phố Hiroshima hứng chịu quả bom Urani của Mỹ. Phát xít Nhật đầu hàng, Thế chiến II chấm dứt, và những gì còn lại ở Nhật là đống đổ nát sau chiến tranh.

Các vụ đánh bom khiến sản xuất lương thực bị gián đoạn và người dân phải sống trong cảnh đói kém. Nền kinh tế Nhật vốn có động lực là sản xuất vật tư phục vụ chiến tranh đã bị đình trệ đáng kể khi sản xuất công nghiệp giảm 90%. Thu nhập bình quân đầu người giảm mạnh 47%.

Việc tái thiết nền kinh tế là một thách thức khi Nhật Bản có ít dân số và khi nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề. Nhật Bản không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý với các điều khoản cứng rắn để đổi lấy viện trợ tái thiết của Mỹ. Từ năm 1946 đến năm 1952, Nhật Bản đã nhận được khoảng 2,2 tỷ USD, trong đó bao gồm gần 1,7 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại và 504 triệu USD Mỹ cho vay.

Bên cạnh các chính sách, các Keiretsu đã hình thành dưạ trên nền tảng các Zaibatsu – Tập đoàn công nghiệp khổng lồ kiểm soát nền kinh tế nước Nhật trước thế chiến thứ hai, và từng bước khẳng định đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc hùng mạnh đứng thứ 2 trên thế giới.

keiretsu5-1670292419.png

Yoshida Shigeru, Thủ tướng Nhật Bản trong 2 nhiệm kỳ 1946-1947 và 1948-1954.

Người đã phát triển học thuyết Yoshida, một trong những người giúp Nhật Bản vực dậy tập trung vốn tái thiết xây dựng đất nước, cắt giảm chi phí quân sự.

Để làm được điều đó, chính phủ đã sử dụng nguồn viện trợ tái thiết một cách khôn ngoan. Chính phủ Nhật Bản đã chủ động cắt giảm 90% chi tiêu quân sự và dành khoản tiền này cho giáo dục, mà cụ thể là tập trung vào các ngành STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học), những lĩnh vực sẽ phục vụ cho ngành công nghiệp của nước nhà trong tương lai.

Nhưng yếu tố chính yếu là công dân cần có một mức độ kỷ luật xã hội cao hơn. Các nhà lãnh đạo, cả trong chính phủ và thành phần tư nhân đều phải có tinh thần đạo đức cao. Vì vậy, các công ty được khuyến khích hợp tác hơn là cạnh tranh. Các ngân hàng được giao nhiệm vụ hỗ trợ thay vì chiếm đoạt. Lực lượng lao động được kỳ vọng không chỉ hoàn thành, mà còn vượt qua cả nhiệm vụ được giao. Chính những điều này đã tạo nên văn hóa "lợi ích tập thể" của Nhật Bản. 

Bản chất của Keiretsu:

Bản chất của các tập đoàn Keiretsu là mối quan hệ qua lại giữa các công ty thành viên theo hai chiều chính: dọc và ngang. Kiểu liên kết dọc hay ngang quyết định đến bộ phận đứng đầu của một Keiretsu.

Keiretsus ngang xuất hiện trước, cũng là mô hình đặc trưng của Keiretsu, ​​đặc biệt là đối với ngành ngân hàng Nhật Bản. Đây là những nhóm gồm nhiều công ty sở hữu cổ phần của nhau, đứng đầu là một ngân hàng Nhật Bản, còn được gọi là sở hữu chéo. Một trong những tác động của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng.

Rất nhiều công ty Nhật đều có liên hệ ít nhiều đến Keiretsu. Thông thường một nhà sản xuất lớn sẽ mua cổ phần trong ít nhất vài trăm công ty khác liên quan.

keiretsu4-1670289463.png
Ví dụ về mô hình tổ chức của Keiretsu dọc. Ảnh: TH.

Các Keiretsu liên kết ngang hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ công nghiệp đóng tàu, luyện kim, xây dựng, hoá chất cho đến thương mại. Do sở hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương mại chung nên các doanh nghiệp trong Keiretsu thường có chiến lược kinh doanh giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi gặp khó khăn về tài chính, chia sẻ kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị, thâm nhập thị trường.

Trong khi đó, Keiretsu liên kết dọc là là các nhánh bên trong Keiretsu ngang, là các nhánh của tổ chức, và có mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một ngành nghề nhất định). Toyota, Toshiba và Nissan là những ví dụ về Keiretsu dọc. Không giống như Keiretsu nằm ngang, các ngân hàng không đóng một vai trò quan trọng nào trong việc hình thành này. Các nhóm này được chia thành các phân cấp hoặc tầng đa cấp.

Ưu và nhược điểm của các Keiretsu

Từ sau Thế chiến Thứ 2, Keiretsu không những giúp nền kinh tế Nhật Bản vực dậy mà còn cải thiện đáng kể vị trí của nền kinh tế Nhật Bản trên trường thế giới: Năm 1960, ngành công nghiệp Nhật Bản đã đạt 350% sản lượng mà đất nước này sản xuất trước Thế Chiến thứ 2. Vào năm 2020, Tokyo (Nhật Bản) là thành phố giàu nhất thế giới, tính theo GDP. Và Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới vào cuối năm 2019.

Keiretsu giúp cho các công ty thành viên tránh được nguy cơ bị thôn tính bởi các công ty nước ngoài nhờ việc tập hợp thành một khối thống nhất. Keiretsu đảm bảo rằng các thành viên của nó không bị cuốn vào cuộc cạnh tranh lẫn nhau. Đây được gọi là "One Set rule - Quy tắc một tập hợp". Và nguồn vốn cũng dễ dàng được hỡ trợ bởi các ngân hàng.

Tuy nhiên, keiretsu cũng có một số nhược điểm: Các nhà phê bình chỉ ra rằng kích thước lớn khiến các keiretsu khó đáp ứng nhanh với nhu cầu thị trường và sự hạn chế cạnh tranh sẽ dẫn đến hoạt động không hiệu quả cũng như khả năng tiếp cận vốn dễ dàng sẽ khuyến khích các công ty thực hiện các chiến lược "được ăn cả, ngã về không" và các tổ chức bên ngoài ngân hàng sẽ khó mà đồng ý tài trợ vốn cho họ.

Vì vậy, các công ty Nhật Bản có khoảng thời gian rơi vào lao đao trong khoảng thế kỷ thứ XX, và một số công ty đã xem lại, suy ngẫm và tiến hành cải cách mô hình keiretsu nguyên mẫu.