Lãng phí là một căn bệnh, gây ra nhiều tác hại trước mắt và để lại hậu quả lâu dài.
Tiết kiệm là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Theo Người, tiết kiệm (hay còn gọi là kiệm) được định nghĩa ngắn gọn là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Người nhấn mạnh rằng cần và kiệm phải là đức tính đầu tiên của người cách mạng, còn lãng phí chính là điều đối lập. Ngay phần mở đầu cuốn Đường Kách mệnh (1927), Hồ Chí Minh đã khẳng định tư cách người cách mạng là “tự mình phải cần, kiệm”.
Người đặc biệt lưu ý rằng lãng phí không chỉ là một căn bệnh mà còn là tội lỗi với Đảng, với Nhà nước và với Nhân dân. Sự lãng phí để lại những tác hại nhãn tiền và kéo dài hậu quả về sau.
Trong bài viết năm 1949 “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng tiết kiệm là gì, vì sao phải tiết kiệm, tiết kiệm những gì và ai cần phải tiết kiệm. Người nhấn mạnh rằng “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiết kiệm không chỉ là tiết kiệm của cải vật chất mà còn bao gồm tiết kiệm thời gian, tiết kiệm sức dân, tiết kiệm nhân tài. Người khẳng định rằng “tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước nhất là các cơ quan, các bộ đội, các xí nghiệp”. Người giải thích thêm rằng “nếu ta khéo tiết kiệm sức người, sức của và thời giờ, thì với sức lao động, tiền tài của nước ta hiện nay, ta có thể tăng gia sản xuất gấp bội mà lực lượng của ta về mọi mặt cùng tăng gấp bội. Đó là một sự thực chắc chắn, chứ không phải lý luận cao xa. Kinh nghiệm của các nước bạn đã tỏ rõ như vậy”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng căn dặn rõ rằng tiết kiệm là “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Người nhấn mạnh “tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là 'xem đồng tiền to bằng cái nống', 'gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu'. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng”. Theo Người, tiết kiệm là sử dụng hợp lý, hiệu quả tiền của, thời gian và công sức lao động để tích lũy vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, từ đó nâng cao mức sống của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng “tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân”. Người cũng chỉ ra “chúng ta phải chặt chẽ hơn nữa trong việc dùng tiền dành dụm của chúng ta, để tiến nhanh tới cuộc sống no ấm, đầy đủ cho mọi người”. Người nhắc nhở rằng “nếu mỗi người tiết kiệm một chút, sản xuất một chút, góp lại sẽ thành một số rất to”. Hồ Chí Minh cũng lưu ý “chớ tưởng tiết kiệm những cái cỏn con như mẩu giấy, ngòi bút là không có ảnh hưởng. Một người như thế, trăm người như thế, vạn người như thế, công quỹ đã bớt được một số tiền đáng kể, lấy ở mồ hôi nước mắt dân nghèo mà ra”.
Năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi nông dân tỉnh Bắc Kạn trong mùa thu hoạch lúa. Ảnh tư liệu: TTXVN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra ba nội dung quan trọng của việc tiết kiệm, đó là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian và tiết kiệm tiền của. Người cho rằng thời gian chính là tiền bạc, thậm chí còn quý giá hơn tiền bạc. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Từ Chủ tịch, Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân... Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”.
Tiết kiệm trong tư tưởng của Người còn bao gồm cả việc tiết kiệm sức dân và sức lao động. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất trong xã hội. Người nhấn mạnh: “Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng thật hợp lý sức lao động của nhân dân ta”. Tiết kiệm sức dân có nghĩa là phải phân công lao động một cách hợp lý, tổ chức sản xuất theo dây chuyền khoa học để đạt năng suất cao nhất. Đồng thời, việc tiết kiệm sức dân cũng bao gồm cả tiết kiệm xương máu của bộ đội, chiến sĩ và nhân dân.
Không chỉ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc tới việc tiết kiệm nhân tài. Theo Người, tiết kiệm nhân tài là phải phân công công việc đúng với sở trường của mỗi người và động viên mọi người có tài năng ra gánh vác việc nước.
Người cũng chỉ rõ nguyên nhân gây ra lãng phí là do bệnh quan liêu. Các biểu hiện của bệnh này bao gồm lập kế hoạch không chu đáo, tính toán không cẩn thận, mắc bệnh hình thức, xa xỉ, phô trương hoặc thiếu tinh thần bảo vệ của công.
Ngay cả trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn mạnh việc thực hành chống lãng phí và thực hành tiết kiệm trong từng công việc cụ thể.
Bữa ăn giản dị của bác
Tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm
Không chỉ nêu tư tưởng về tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một tấm gương mẫu mực trong thực hành tiết kiệm. Người luôn thể hiện tinh thần gương mẫu trong mọi hành động.
Năm 1945, khi mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người đã thẳng thắn nhắc nhở: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.
Một lần khác, tại Việt Bắc, sau chuyến công tác dài, Bác về văn phòng nghỉ ngơi. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác, nhờ bà Nguyễn Thị Liên nấu cháo cho Bác vì Bác mệt không ăn được cơm. Nghe vậy, Bác liền dặn: “Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa”.
Trong sinh hoạt hàng ngày, dù là Chủ tịch nước và được ưu tiên cấp điện, nhưng Bác không dùng riêng cho mình. Khi anh em phục vụ lắp máy điều hòa trong lúc Bác đi công tác, vừa trở về, Bác đã yêu cầu: “Các chú hãy mang chiếc máy điều hòa này cho anh em thương binh ở Hàng Bột. Hôm Bác đến thăm thấy các chú ấy ở nóng lắm. Còn Bác thì chưa cần”. Ngay chiều hôm đó, anh em đã chuyển chiếc máy theo yêu cầu của Bác.
Khi vào Lăng viếng Bác, ai cũng thấy trước linh cữu của Người có một hộp kính nhỏ đựng đôi dép cao su đen. Đôi dép này đã theo Bác suốt 11 năm. Đó là đôi dép được làm từ lốp ô tô quân sự Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Mặc dù gót dép đã mòn, quai dép phải đóng đinh lại để giữ chắc, nhưng khi được đề nghị đổi dép mới, Bác vẫn từ chối với lý do “vẫn còn đi được”.
Năm 1957, trong chuyến thăm Nghệ Tĩnh, Bác dùng bữa cơm chung với các đồng chí Nguyễn Sĩ Quế, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Diệm. Người để bớt một số món ăn ra ngoài và dặn: “Ăn hết lấy thêm, không ăn hết để người khác ăn, đừng để người ta ăn thừa của mình”.
Năm 1969, khi sức khỏe đã yếu, mắt giảm thị lực, Thông tấn xã gửi cho Bác các bản tin chỉ in một mặt để dễ đọc. Sau khi đọc xong, những bản tin không còn cần thiết, Bác chuyển cho Văn phòng Phủ Chủ tịch cắt ra làm phong bì hoặc giấy viết, tránh lãng phí. Đặc biệt, ngày 10/5/1969, Người đã viết đoạn mở đầu bản Di chúc lịch sử bằng mực xanh vào mặt sau tờ tin Tham khảo đặc biệt ra ngày 3/5/1969.
Cũng trong năm đó, khi Bộ Chính trị họp bàn việc tổ chức 4 ngày lễ lớn cho năm sau, Bác dù đang bệnh nặng nhưng vẫn quan tâm. Khi nghe báo cáo lại nội dung cuộc họp, Bác nói: “Các chú nên bàn bạc cho kỹ, còn ý kiến của Bác, Bác chỉ đồng ý 3/4 Nghị quyết. Bác không đồng ý đưa ngày 19/5 (ngày sinh của Bác) là ngày kỷ niệm lớn trong năm 1970. Hiện nay, các cháu học sinh sắp vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc dùng tuyên truyền về ngày sinh của Bác thì các chú nên để in sách giáo khoa và mua dụng cụ học tập cho các cháu khỏi lãng phí...”.
Những câu chuyện nhỏ đó là những minh chứng rõ ràng cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. Người đã sống đúng với những lời căn dặn của mình: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước… Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”.
Tấm gương tiết kiệm của Bác Hồ chắc chắn sẽ tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, trở thành nét văn hóa tự giác, tự nguyện trong mỗi người dân Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đất nước vươn mình hội nhập và phát triển.